Chiến tranh thế giới thứ hai Phim chiến tranh

Quay phim trên tàu ngầm HMS Tribune Hải quân Hoàng gia Anh, thể hiện hình ảnh tàu HMS Tyrant trong một bộ phim tuyên truyền, năm 1943.

Phim do khối Đồng Minh thực hiện

Những bộ phim chiến tranh nổi tiếng đầu tiên của Đồng Minh được thực hiện trong Chiến tranh thế giới thứ hai đến từ Anh và kết hợp các yếu tố của phim tài liệu và phim tuyên truyền. Các bộ phim như The Lion Has WingsTarget for Tonight được thực hiện dưới sự kiểm soát của Bộ phận Điện ảnh của Bộ Thông tin. Ngành công nghiệp điện ảnh Anh bắt đầu kết hợp các kỹ thuật phim tài liệu với những câu chuyện hư cấu trong các bộ phim như In which We Serve (1942) của Noël CowardDavid Lean – "bộ phim Anh thành công nhất trong những năm chiến tranh"[57] – hay Millions Like Us (1943) và The Way Ahead (1944).[58]

Máy bay B-25 sắp phóng từ USS Hornet trong Thirty Seconds Over Tokyo (1944).

Ở Mỹ, phim tài liệu được sản xuất theo nhiều cách khác nhau: Tướng Marshall ủy thác loạt phim tuyên truyền Why We Fight của Frank Capra; Phòng Thông tin-Giáo dục của Bộ Chiến tranh bắt đầu làm phim huấn luyện cho Lực lượng Không quân và Hải quân Hoa Kỳ; Quân đội đã thành lập riêng thông qua Quân đoàn Tín hiệu Hoa Kỳ, bao gồm cả The Battle of San Pietro của John Huston.[59] Hollywood làm phim với thông điệp tuyên truyền về các đồng minh của Mỹ, chẳng hạn như Mrs. Miniver (1942), miêu tả câu chuyện về một gia đình Anh;[60] Edge of Darkness (1943) miêu tả các chiến binh Na Uy kháng chiến, và The North Star (1943) miêu tả Liên XôĐảng Cộng sản của họ. Vào cuối chiến tranh, những cuốn sách nổi tiếng đã cung cấp nguồn cốt chuyện chất lượng và nghiêm túc hơn cho các bộ phim như Guadalcanal Diary (1943), Thirty Seconds Over Tokyo (1944) của Mervyn LeRoy[61]They Were Expendable (1945) của John Ford.[62]

Ảnh chụp màn hình từ Moscow Strikes Back (1942). Bộ binh ngụy trang tuyết của Nga tham chiến trên xe tăng kỵ binh BT-7 trong Trận Moskva.

Người Nga cũng đánh giá cao giá trị tuyên truyền của phim điện ảnh, thể hiện cả chiến công lẫn những hành động tàn bạo của Đức. Bộ phim tài liệu của Ilya Kopalin Moscow Strikes Back được thực hiện trong Trận Moskva từ tháng 10 năm 1941 đến tháng 1 năm 1942, mô tả những người dân thường giúp đỡ bảo vệ thành phố, cuộc diễu hành ở Quảng trường Đỏ, cách bài phát biểu của Stalin kích động người dân Nga tham gia vào trận chiến và những hành động tàn bạo bao gồm việc trẻ em bị sát hại và dân thường bị treo cổ. Tác phẩm đã giành được giải Oscar vào năm 1943 cho Phim tài liệu hay nhất.[63][64]

Phim truyện được thực hiện ở phương Tây trong thời kỳ chiến tranh phải chịu sự kiểm duyệt và không phải lúc nào cũng theo sát thực tế. Một trong những tác phẩm đầu tiên cố gắng tái hiện sự bạo lực và "chủ nghĩa hiện thực gay gắt" đã được ca ngợi vào thời điểm đó là Bataan của Tay Garnett (1943). Các mô tả về phim vẫn phải được viết cách điệu. Jeanine Basinger đã lấy bộ phim làm ví dụ cho những "hình ảnh tồi tệ nhất về bạo lực" khi một người lính Nhật chặt đầu một người Mỹ: nạn nhân tỏ ra đau đớn và môi anh ta đóng băng với một tiếng hét, nhưng không có máu phun ra và đầu của anh ta không hề rơi xuống. Basinger chỉ ra rằng mặc dù điều này là không thực tế về mặt vật lý, nhưng về mặt tâm lý thì nó có thể không phải như vậy. Bà chỉ ra rằng khán giả thời chiến là những người biết rõ về bạn bè và người thân của những người đã thiệt mạng hoặc những người bị thương trở về nhà.[65]

Phim do phe Trục thực hiện

HitlerGoebbels đến thăm Universum Film AG năm 1935. Hãng đã thực hiện các bộ phim tuyên truyền như Triumph des Willens (1935) và Kolberg (1945).

Tương tự, phe Trục cũng đã làm phim trong Chiến tranh thế giới thứ hai, để tuyên truyền và các mục đích khác. Ở Đức, bộ chỉ huy cấp cao của quân đội đã đưa ra Sieg im Westen (1941).[66] Các bộ phim tuyên truyền khác của Đức Quốc Xã có chủ đề khác nhau, như với Kolberg (1945), mô tả cuộc kháng cự ngoan cố của quân Phổ trong Cuộc vây hãm Kolberg (1807) trước khi quân Pháp xâm lược dưới thời Napoléon.[67] Bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels đã chọn đề tài lịch sử phù hợp với tình hình ngày càng tồi tệ mà Đức Quốc Xã phải đối mặt khi tác phẩm được quay từ tháng 10 năm 1943 đến tháng 8 năm 1944. Với hàng nghìn binh sĩ vào vai diễn viên quần chúng và 100 toa xe lửa chở muối để mô phỏng tuyết, đây là bộ phim Đức tốn kém nhất được thực hiện trong chiến tranh. Trong thực tế, cuộc vây hãm kết thúc khi thị trấn bị thất thủ; nhưng trong phim, các tướng Pháp đã từ bỏ cuộc vây hãm.[68]

Đối với Nhật Bản, chiến tranh bắt đầu với cuộc chiến tranh và xâm lược của Trung Quốc vào năm 1937, mà chính quyền Nhật Bản gọi là "Sự cố Trung Quốc". Chính phủ đã cử một "lữ đoàn bút" tới viết và quay phim hành động ở Trung Quốc với những "giá trị nhân văn". Mud and Soldiers (1939) của Tasaka Tomotaka là một ví dụ khi được quay ngay trên đất Trung Quốc. Legend of Tank Commander Nishizumi của Yoshimura KōzaburōChocolate and Soldiers (1938) của Takeshi Saito thì cho thấy hình ảnh người lính Nhật Bản như một cá nhân bình thường, và họ cũng chỉ là những người đàn ông của gia đình; và ngay cả những người lính kẻ thù Trung Quốc cũng được thể hiện như những cá nhân, với ý chí chiến đấu dũng cảm.[69] Khi chiến tranh với Hoa Kỳ được tuyên bố, xung đột Nhật Bản được gọi là Chiến tranh Thái Bình Dương. Các nhà phê bình phim Nhật Bản lo ngại rằng ngay cả với kỹ xảo điện ảnh phương Tây, sản phẩm phim của họ vẫn không thể hiện được các giá trị bản địa của Nhật Bản.[70] Nhà sử học John Dower phát hiện ra rằng các bộ phim về thời chiến của Nhật Bản đã hầu như bị lãng quên, nhưng các bộ phim này đều tinh tế và khéo léo đến mức Frank Capra phải thừa nhận Chocolate and Soldiers là bất khả chiến bại. Các anh hùng thường là những sĩ quan cấp thấp, không phải samurai, bình tĩnh cống hiến cho người dân và đất nước của mình.[71] Những bộ phim này không cá nhân hóa kẻ thù và do đó không đem lòng căm thù, mặc dù Vương quốc Anh có thể coi là "kẻ thù về văn hóa". Đối với các nhà làm phim Nhật Bản, chiến tranh không phải là một nguyên nhân mà giống như một thảm họa thiên nhiên, và "điều quan trọng không phải là người ta đã chiến đấu với ai mà là chiến đấu tốt như thế nào". Những kẻ thù châu Á, đặc biệt là người Trung Quốc, thường được miêu tả là những người bạn đời và thậm chí có thể kết hôn. Các bộ phim về thời chiến của Nhật Bản không ca ngợi chiến tranh mà giới thiệu nhà nước Nhật Bản như một đại gia đình và người dân Nhật Bản là một "dân tộc vô tội, đau khổ, đầy hy sinh". Dower nhận xét rằng sự sai trái của hình ảnh này "là hiển nhiên: không có bất kỳ sự công nhận nào rằng, ở mọi cấp độ, người Nhật cũng trở thành nạn nhân của những người khác."[72]

Sau chiến tranh

Một cảnh quay từ A Bridge Too Far tại địa điểm ở Deventer, Hà Lan, 1977.

Theo Andrew Pulver của The Guardian, việc công chúng mê phim chiến tranh đã trở thành nỗi "ám ảnh" với hơn 200 bộ phim chiến tranh được sản xuất trong mỗi thập niên 1950 và 1960.[73] Sản xuất phim chiến tranh ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đạt đến đỉnh cao vào giữa những năm 1950.[74] Sự nổi tiếng của thể loại này ở Vương quốc Anh là nhờ sự thành công về mặt thương mại và phê bình của tác phẩm The Cruel Sea (1953) của Charles Frend.[74] Giống như những tác phẩm khác trong giai đoạn này, The Cruel Sea cũng dựa trên một cuốn tiểu thuyết bán chạy, trong trường hợp này là câu chuyện về trận chiến Đại Tây Dương của cựu chỉ huy hải quân Nicholas Monsarrat.[75][76] Những tác phẩm khác, như The Dam Busters (1954), với câu chuyện thú vị về quả bom dội của nhà phát minh Barnes Wallis cùng phần nhạc chủ đề đặc biệt, đều là những câu chuyện có thật. The Dam Busters trở thành bộ phim nổi tiếng nhất ở Anh vào năm 1955,[77] và vẫn là bộ phim được yêu thích nhất cho đến năm 2021 với 100% điểm trên Rotten Tomatoes,[78] một phần vì tác phẩm ca ngợi một "[chiến thắng] độc quyền của Anh"; tuy vậy, tác phẩm này lại gặp thất bại ở thị trường Mỹ.[79] Đặc biệt, một số lượng lớn các bộ phim chiến tranh đã được thực hiện trong giai đoạn 1955–58. Riêng năm 1957, Bitter Victory, Count Five and Die, The Enemy Below, Ill Met by Moonlight, Men in War, The One That Got AwaySeven Thunders và hai tác phẩm điện ảnh vô cùng thành công, được giới phê bình đánh giá cao là The Bridge on the River Kwai – đoạt Giải Oscar cho Phim hay nhất năm đó[80] – và Paths of Glory đã được phát hành.[81] Một số phim như Bitter Victory tập trung nhiều hơn vào cuộc chiến tâm lý giữa các sĩ quan và chủ nghĩa ích kỷ hơn là các sự kiện trong chiến tranh.[82] The Bridge on the River Kwai mang đến một bức tranh chiến tranh phức tạp mới, với cảm giác về sự bất ổn đạo đức xung quanh chiến tranh. Theo Pulver, vào cuối thập kỷ này, "cảm giác về những chiến thắng chung" vốn phổ biến trong các bộ phim chiến tranh "bắt đầu phai nhạt".[73]

Các bộ phim Hollywood trong những năm 1950 và 1960 thường thể hiện hình ảnh những anh hùng hay những sự hy sinh cao cả, như trong bộ phim nổi tiếng Sands of Iwo Jima (1949) do John Wayne thủ vai chính. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ coi Sands of Iwo Jima là tác phẩm mang những hình ảnh rất chân thực, nhưng lại thấy Battle Cry (1955) của Lewis Milestone, với nội dung tập trung vào cuộc sống những người lính thời chiến, lại có tính thực tế cao hơn.[83] Theo Lawrence Suid, công thức cho một bộ phim chiến tranh thành công bao gồm một nhóm nhỏ những gã trai đa dạng về sắc tộc; một sĩ quan cấp cao vô lý; hoặc một kẻ hèn nhát trở thành anh hùng, hoặc chết.[83] Jeanine Basinger gợi ý rằng một bộ phim chiến tranh truyền thống nên có một anh hùng, một nhóm người và một mục tiêu, và nhóm người đó nên có "một người Ý, một người Do Thái, một người hay phàn nàn đến từ Brooklyn, một tay bắn tỉa từ miền núi, một người miền trung (mang biệt danh theo bang như "Iowa" hoặc "Dakota"), và một nhân vật phải được bắt đầu câu chuyện theo một cách nào đó".[65] Các bộ phim dựa trên các nhiệm vụ biệt kích có thật, như The Gift Horse (1952) dựa trên cuộc đột kích của St. Nazaire, và Ill Met by Moonlight (1956) dựa trên sự kiện bắt giữ chỉ huy Crete của Đức, lấy cảm hứng từ các bộ phim phiêu lưu hư cấu như The Guns of Navarone (1961), The Train (1964) và Where Eagles Dare (1968). Những bộ phim này đã sử dụng chiến tranh làm bối cảnh cho những pha hành động ngoạn mục.[73]

Chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong: Tora! Tora! Tora! mô phỏng Trận Trân Châu Cảng với một bức tường lửa thay vì vụ nổ, sử dụng các máy bay như T-6 Texans được chuyển đổi để giống Mitsubishi A6M Zeros, và tạo ra khói.[84]

Darryl F. Zanuck đã sản xuất bộ phim tài liệu dài 178 phút mang tên The Longest Day (1962), dựa trên ngày đầu tiên của cuộc đổ bộ D-Day; phim đạt thành công về mặt thương mại cùng với các đề cử tại Oscar.[85] Tiếp theo là những bộ phim quy mô lớn nhưng đầy tư tưởng như Ivan's Childhood (1962) của Andrei Tarkovsky, và những bộ phim tài liệu được quay ở châu Âu như Battle of the Bulge (1965), Battle of Britain (1969), The Battle of Neretva (1969), Midway (1976) và A Bridge Too Far (1977). Theo quan điểm của Lawrence Suid, The Longest Day "là hình mẫu cho tất cả các phim chiến đấu sau này".[86] Tuy nhiên, chi phí của nó cũng khiến tác phẩm trở thành phim cuối cùng trong số các phim chiến tranh truyền thống, trong khi tranh cãi xung quanh sự giúp đỡ của Quân đội Hoa Kỳ và việc Zanuck "coi thường quan hệ với Lầu Năm Góc" đã thay đổi cách mà Hollywood và Quân đội hợp tác.[86] Zanuck, lúc đó là giám đốc điều hành của 20th Century Fox, đã thiết lập một công ty hợp tác giữa Mỹ và Nhật để sản xuất Tora! Tora! Tora! (1970) của Richard Fleischer, miêu tả những gì "thực sự xảy ra vào ngày 7 tháng 12 năm 1941" trong cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng.☃☃☃☃ Bộ phim do Roger Ebert☃☃ và The New York Times thự và là một thành công lớn ở thị trường Nhật Bản. Cảnh tấn công trông như thật của tác phẩm đã được sử dụng lại trong các bộ phim sau này như Midway (1976), The Final Countdown (1980) và Australia (2008). Câu chuyện này cũng đã được kể lại trongược kể lại t Trân Châu Ctác phẩm ảng (2001), được The New York Times mô tả là một "bom tấn mới ồn ào, tốn kém và rất dài", với nhận xét rằng "bộ phim như một bức tranh hành động đầy mãn nhãn".[87]

Bộ phim Giải cứu binh nhì Ryan (1998) của Steven Spielberg sử dụng máy quay cầm tay, thiết kế âm thanh, dàn dựng và tăng chi tiết âm thanh hình ảnh để giúp người xem rời bỏ định kiến quen thuộc với những bộ phim chiến đấu thông thường, để tạo ra cái mà nhà sử học điện ảnh Stuart Bender gọi là "chủ nghĩa hiện thực được báo cáo".[88] Thành công của tác phẩm đã gợi lại sự quan tâm của công chúng tới các phim điện ảnh về Chiến tranh thế giới thứ hai.[89] Các tác phẩm khác thì cố gắng miêu tả sự chân thực của cuộc chiến, như trong Stalingrad (1993) của Joseph Vilsmaier, mà The New York Times nhận xét là "tiến [khoảng cách] xa nhất mà một bộ phim có thể tiến để mô tả một cuộc chiến tranh hiện đại dưới hình thức thảm sát hàng loạt".[90]

Quan hệ giữa quân đội và ngành công nghiệp điện ảnh

Đại tá Frank Capra (phải) của Quân đoàn Báo hiệu Quân đội Hoa Kỳ trao đổi với Đại úy Roy Boulting của Đơn vị Điện ảnh Quân đội Anh về việc biên tập bộ phim Tunisian Victory vào tháng 2 năm 1944.

Nhiều bộ phim chiến tranh đã được sản xuất dưới sự hợp tác với lực lượng quân đội của một quốc gia. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hải quân Hoa Kỳ đã cung cấp tàu và hướng dẫn kỹ thuật cho các bộ phim như Top Gun. Lực lượng Không quân Hoa Kỳ thì hỗ trợ các dự án điện ảnh The Big Lift, Strategic Air CommandA Gathering of Eagles, được quay tại các căn cứ của Lực lượng Không quân; các nhân sự Không quân cũng xuất hiện với nhiều vai trò.[91] Trong một trường hợp khác, Hải quân Hoa Kỳ phản đối các tình tiết trong Crimson Tide, đặc biệt là cuộc binh biến trên tàu hải quân Hoa Kỳ, vì vậy bộ phim được sản xuất mà không nhận được sự hỗ trợ từ phía họ.[92] Nhà sử học điện ảnh Jonathan Rayner nhận xét rằng những bộ phim như vậy "rõ ràng cũng nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền, chiêu quân và quan hệ công chúng quan trọng".[93]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Phim chiến tranh http://www.filmbiz.asia/news/eternal-zero-tops-jap... http://nla.gov.au/nla.news-article58094591 http://www.afi.com/silver/films/2014/p67/thegreatw... http://www.allmovie.com/movie/v40655 http://articles.baltimoresun.com/1993-10-09/featur... http://www.criterion.com/current/posts/342-the-bat... http://www.criterion.com/current/posts/8-alexander... http://www.criterion.com/current/posts/812-paths-o... http://www.historytoday.com/michael-paris/american... http://www.hollywoodmoviememories.com/articles/war...